Gian Nan Giấc Mộng Trung Quoc
Ninh Ḥa
là một thị trấn nhỏ thuộc huyện Ninh Ḥa Tỉnh Khánh Ḥa miền Trung,
nằm trên con đường huyết mạch Quốc Lộ số 1 nối liền hai miền Nam Bắc
Việt Nam. Dân cư của Thị trấn phần lớn là người Hoa. Ngược về lịch
sử mấy trăm năm trước, tổ tiên của tôi chạy giặc nhà Thanh từ Trung
Quốc đi bằng ghe buồm xuôi Nam, một số người tấp vào bến đ̣ thôn Tiên
Du một làng biển nhỏ của huyện Ninh Hoa. Người địa phương gọi chúng
tôi là người Tàu, thương t́nh họ cho chúng tôi lên bờ rồi chúng tôi
ở luôn tại đây. Phần lớn số người Tàu chạy đến Ninh Ḥa là người từ làng
Văn Xương của đảo Hải Nam, môt số khác là người từ tỉnh Quảng Đông
và Tiều Châu. Người Tàu khi chạy giặc mang theo nghề Đông Y cổ
truyền, họ mở tiệm thuốc bắc, bắt mạch cho toa bán thuốc chửa bịnh
cho người địa phương. Một số lái buôn mua bán nông phẩm xuất cảng về
Trung Quốc, dần dần người Tàu đến ngày càng đông, nương theo con
sông Dinh từ thôn Tiên Du lên Thị Trấn Ninh Ḥa.
Tâm trạng của
người chạy giặc là luôn nghĩ tới ngày trở về cố quốc. Truyền thống
của người Tàu là gia đ́nh nào cũng muốn sanh con trai để nối gịng,
nhưng khi con trai lớn lên th́ con gái Tàu lại thiếu nên một số con
trai lấy vợ người Việt để nhân giống. Và khi sanh ra một đứa con gái
th́ họ lại muốn con gái lấy chồng người Tàu để giữ ǵn giống ṇi. Sợ
con cái mất gốc, họ xây chùa, lập trường học dạy chữ Tàu. Ở trong
một thị trấn nhỏ nên con cái muốn học cao hơn th́ phải đi về Trung Quốc
mà học. Ở thời đó đi các nước Tây phương du học rất khó, cộng với
cái truyền thống bảo thủ và danh dự nên người Tàu chờ ngày thuận
buồm xuôi gió cho con lên ghe về cố hương, cho nên người ta thường
hỏi nhau v́ sao người Hoa đưa con cái về Trung Quốc học trong khi
người Việt ở Ninh Ḥa th́ cho con đi qua các nước tây phương học.
Năm XXXX tôi đến Thành Phố Quê Lâm Trung Quốc (trong một chuyến
du lịch, t́nh cờ gặp một người Ninh Hoà. Anh lập nghiệp và sinh sống
ở đây có hơn năm sáu chục năm rồi. Trong lúc hàn huyên tâm sự, tôi
ṭ ṃ muốn biết lư do và hoàn cảnh nào đă đưa đẩy anh từ huyện lỵ
Ninh Hoà Việt Nam qua đến Quế Lâm Trung Quốc. Tôi mang câu hỏi này
hỏi anh v́ sao người Hoa đưa con cái vể Trung Quốc học trong khi
người Việt th́ đưa con qua các Tây Phương? luôn tiện tôi hỏi anh về
đường đi nước bước năm xưa giửa thời chiến tranh Quốc-Cộng nóng bỏng
mà anh có thể đi từ Ninh Ḥa Việt Nam đến Quế Lâm Trung Quốc, và kinh
nghiệm cuộc sống của anh từ ngày đó cho đến bây giờ nhứt là cuộc
sống trong những năm cách mạng của Trung Quốc như thế nào ?
Anh vui vè kể lại mọi chuyện. (V́ lư do tế nhị, anh yêu cầu tôi
dấu tên.) Anh bạn tôi sanh năm 1940 tại Ninh Ḥa, mấy năm sau gia
đ́nh anh dọn đi Nha Trang, một thành phố biển cách Ninh Ḥa khoảng
30 cây số về phía Nam. Đến năm 1956 anh đậu Trung Học trường Khải
Minh Nha Trang, ba của anh muốn con thăng tiến trong học vấn và giữ
truyền thốn người Tàu nên sắp xếp cho anh qua Trung Quốc đi học.
Trước khi nói về cuộc gian truân của đời ḿnh, Anh tóm gọn lịch
sử nước Tàu: “Là một nước có nhiều nội chiến nhứt trên thế giới, dân
số rất đông, trong nước có nhiều sắc dân, nói nhiều ngôn ngữ địa
phương khác nhau rất phức tạp. Người làng này nói chuyện với người
làng bên kia không hiểu nhau cho nên đánh nhau suốt mấy trăm năm dân
chúng đói khổ triền miên. Măi cho đến Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt năm
1945, sau khi Nhựt Bổn bị Mỹ dội hai trái bom Nguyên Tử họ đầu hàng và
rút khỏi Trung Quốc. Nội chiến lại bắc đầu giữa hai phe Quốc Dân
Đảng do ông Tưởng Giới Thạch lảnh đạo và Đảng Cộng Sản do phe Mao
Trạch Đông cầm đầu đánh nhau tơi bời. Khi đảng Cộng Sản lên cầm
quyền Trung Quốc năm 1949, theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc dân số của
Trung Quốc đă lên hơn tám trăm triệu và tám mươi lăm phần trăm sống
ở thôn quê. Người dân Trung Quốc trong nước khổ chí tử và nhiều người
đă chết v́ đói, trong khi đó người Tàu ở Hải Ngọai th́ được tự do
buôn bán, làm ăn khá giả, những người hảo tâm mới đem tiền của về
giúp, những người không có tiền th́ đem trí óc về xây dựng quê
hương. Chiến tranh Triều Tiên xẩy ra năm 1950 Trung Quốc đem một
triệu quân lính vào cuộc chiến. Liên quân Liên Hiệp Quốc do
Mỹ lảnh đạo ngăn ngừa quân cộng sản nhưng đến năm 1954 khi chiến tranh Triều Tiên chấm
dứt th́ Trung Quốc đóng cửa biên giới để cải cách. Nói là đóng cửa
biên giới chứ thật ra ai có tiển th́ cũng có cách đi ra đi vào Trung
Quốc.
Năm tôi 16 tuổi, đang sống b́nh yên tại phố biển Nha
Trang, một buổi sáng nọ, có một người đến nhà nói chuyện với ba tôi.
Khi câu chuyện kết thúc, người này và tôi cáo biệt cha ra đi. Khi đi
tôi chỉ mang một bộ đồ trên ḿnh, không mang hành lư và không tiền
bạc mang theo. Chúng tôi lên xe lữa đi một đêm đến Saigon. Tại đây tôi
được tiếp xúc và dẫn dắt bởi một người khác. Người lạ mặt thứ hai
này đem tôi vào một nhà trọ ở Saigon, tôi ở đó hai ngày, một người lạ
mặt khác nửa đến nhà trọ kêu tôi lên xe đ̣ đi về Châu Đốc. Đi cả
ngày trời tôi đến Châu Đốc, được một người khác nửa đưa tôi xuống
ghe nhỏ chạy qua Miên. Đến Miên chờ đến tối, th́ một người lạ mặt
khác nửa đến đưa tôi lên xe đi về Nam Vang Phnom Penn.
Đến Nam Vang
họ đưa tôi đến một nhà nghỉ, hằng ngày có người mang cơm nước, họ
dặng tôi không nên đi ra ngoài. Ở đó mấy ngày buồn hiu, tôi muốn quay về
Nha Trang nhưng không có ai để bày tỏ ư muốn quay về. Mấy ngày sau
th́ có một người lạ mặt khác đến đưa tôi lên xe đưa tôi qua biên
giới Miên đến Bangkok. Khi tôi đến Bangkok, có một người lạ mặt khác
đến rước đưa tôi về một ngôi nhà trọ. Tại đây mọi thứ vật dụng được
cung cấp nhưng trong ḿnh của tôi vẩn không có đến một đồng xu.
Trốn tránh hoài tôi phát sợ, trong ḿnh không có tiền và mọi thứ đều
có người lạ lo và mổi chặng đường là một người bí mật khác nhau, họ
biết tên tôi, lo ăn ở chu đáo, họ săp xếp tất cả. Những người lạ mặt
này không bao giờ nói chuyện với tôi quá hai câu và tôi không hề
biết những người lạ đó là ai. Khi gặp nhau tôi và những người lạ mặt
đó nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu. Một tuần ở tại Bangkok
Thailand tôi được đưa cho một vé máy bay của hảng máy bay Anh Quốc
bay đi Hongkong. Đến Hong Kong, một người lạ mặt khác đến gặp tôi
đưa tôi về một nhà trọ, hai hôm sau tôi được một người lạ mặt đưa lên
chuyến xe lữa đêm qua biên giới vào Quăng Châu trong nội địa Trung
Quốc. Đến Quăng Châu tôi được đưa vào một trường học tập thể, ở đây
có nhiều người chung chí hướng từ nhiều nơi trên thế giới đến. Khoản
một tháng sau đó tôi được đưa lên xe lữa đi về Quế Lâm. Tại đây tôi
được chánh phủ thu nhận là một người Hoa Kiều Hải Ngoại Yêu Nước vào
trường nội trú Trung Học Quê Lâm chấm dứt cuộc hành tŕnh bôn tẩu
lúc anh tṛn 17 tuổi.
Tốt nghiệp Đại học 1964, tôi ra trường với
bằng cấp Bác Sỉ Đông Y, chánh phủ bổ nhậm tôi về Y Viện huyện (Rung
Sheng) Long Thành tỉnh Quăng Tây. Lương Bác sĩ mổi tháng 50 đồng
Nhân Dân Tệ. Một phiếu thực phẩm để mua 15 kílô gạo, 1 lít dầu ăn, 1
kilô thịt heo. Mổi năm chánh phủ cấp phiếu để mua 1 thước sáu tất vải để
may quần và may áo, v́ thế đàn ông cũng như đàn bà đều mặt một thứ
vải và một màu mà thôi. Nói chung cuộc sống của tám trăm triệu người
Trung Quốc lúc đó sống trong cảnh rất là nghèo khổ. Mọi hoạc động
của con người và xả hội đều bị kiểm soát, xả hội phải b́nh đẳng,
không một ai hơn ai, đám hỏi đám cưới tiết kiệm tối đa. Bà con ruột
thịt thăm nhau phải mang theo gạo, không ai có thêm một hột gạo để
mời người khác.
Lương Y sĩ mổi tháng 50 đồng Nhân Dân Tệ.
Bác sỉ Giải phẩu lảnh lương 89 NDT. Y sĩ trực đêm được cho thêm 15,
24, 29. 32 và 48 đến 50 và 63 Nhân Dân Tệ tùy theo chức vụ và tay
nghề. Suốt hai mươi năm không tăng lương.
Cuộc Cach Mạng Văn
Hóa do Bà Giang Thanh vợ của ông Mao Trạch Đông lảnh đạo bắc đầu năm
1964 ở Thủ Đô Bắc Kinh và các tỉnh miền Bắc, đến 1968 mới xẩy ra tại
Quế Lâm Tỉnh Quăng Tây. Họ thanh trừng nhiều người trong Y viện, c̣n tôi
v́ tôi nắm chức vụ nhỏ và là Hoa Kiều Yêu Nước Hải Ngoại họ cho
người theo giỏi từng giây từng phút, có lúc họ kiểm soát việc làm
cho đến khi Cách Mạng Văn Hóa chấm dứt. Đến năm 1981 tôi được bổ
nhậm về làm Phó Viện Trưởng Y Viện, lương tăng lên 102 Nhân Dân Tệ.
Một thời gian sau, tôi được lệnh bỏ Y Viện sang làm Phó Huyện trưởng
Huyện Cung Thành tôi được lên lương. Trung Quốc lúc đó không có
người thất nghiệp, Tất cả mọi người có công việc làm, tất cả lảnh lương
bằng nhau và tất cả mọi người đều có nhà ở. Tôi nghỉ hưu năm 2002.
Ở Trung Quốc vào thời kinh tế khó khăn, tất cả những ǵ cần
cho cuộc sống hằng ngày đều phải có phiếu như phiếu thực phẩm, phiếu
mua vải v.v. cho nên có nhiều chuyện thật khôi hài.Tại thành phố
Kung Sheng có một người phụ trách bán thịt heo, ông này rất thông
cảm cho những ai cần thịt heo loại ǵ cho ḿnh thích. Khi đưa phiếu
mua thịt, người ta dặng ông loại thịt ǵ ông rất thông cảm lựa loại thịt
cho ḿnh. Một hôm bà vợ ông qua đời, cái đám tang của bà vợ ông ta
ngươi đi đưa đám đông hơn đám tang của nhà lảnh tự trong huyện. Lư
do là ông vẩn c̣n đứng bán thịt, đến khi ông ta chết th́ đám tang
chỉ vọn vẹn có mấy người đi đưa đám.
Từ thập niên 70 cho đến thập
niên 90, tại Trung Quốc có 4 thứ người quang trọng nhứt cho cuộc
sống của người Trung Quốc: Thứ nhứt là người lái xe, anh tài xế có
tên tiếng lóng là 6 bánh xe để di chuyển khi đi xa. Người thứ hai là
người bán thịt tên lóng là con dao. Người thứ 3 là cán bộ y tế tên
lóng là người áo trắng, Người thứ tư là thôn trưởng tiếng lóng gọi
là người cầm cờ đỏ. Là người cấp giấy phép để đi đường. Dân số ướt
tính hơn tám trăm triệu tất că đều có nhà để ở, có công việc làm
không một ai thất nghiệp và sống ngon ngoản dưới sự ưu ái của bốn người
này. Ông Tài Xế, Ông Bán Thịt, Ông Y Sĩ và Ông Thôn Trưởng.
Đường B́nh
|